Về đánh giá tác phẩm Tú_Xương

Mộ Trần Tế Xương tại thành phố Nam Định (gần tượng đài Trần Quốc Tuấn)

Nói đến tài làm thơ của Tú Xương, nhiều người đã đặc biệt chú ý đến sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố hiện thực, trào phúng và trữ tình, trong đó trữ tình là gốc. Với Tú Xương, vẫn chưa thấy chắc chắn có bài thơ chữ Hán nào, chỉ thấy thơ Nôm viết bằng các thể loại cổ điển: thơ luật Đường - thất ngôn bát cú, tứ tuyệt; phú; văn tế; câu đối; hát nói; lục bát. Ở thể loại nào Tú Xương cũng tỏ ra là một nghệ sĩ bậc thầy.

  • Nguyễn Công Hoan suy tôn Tú Xương là bậc thần thơ thánh chữ.
  • Xuân Diệu xếp hạng Tú Xương thứ 5 sau Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân HươngĐoàn Thị Điểm.
  • Tản Đà khi còn sống "trong những thi sĩ tiền bối, phục nhất Tú Xương" (Xuân Diệu kể vậy). Tản Đà tự nhận trong đời thơ của mình mới địch nổi Tú Xương một lần thôi bằng chữ "vèo" trong bài thơ Cảm thu, Tiễn thu của ông: Vèo trông lá rụng đầy sân. Nguyễn Công Hoan cũng kể vậy.
  • Nguyễn Tuân biểu dương Tú Xương là: một người thơ, một nhà thơ vốn nhiều công đức trong cuộc trường kỳ xây dựng tiếng nói văn học của dân tộc Việt Nam.

Tú Xương còn là hiện tượng hiếm trong lịch sử tác gia Việt Nam: Tú Xương có "môn phái", "môn đệ". Tên của ông là Trần Tế Xương, có lúc đổi thành Trần Cao Xương, nhưng đây là chữ xương với nghĩa "thịnh vượng" (còn có nghĩa là đẹp, thẳng). Sách xưa có chữ "Đức giả xương" (người có đức, thịnh vậy), không phải là xương theo nghĩa "xương thịt". Nhưng người đời sau, mấy vị chuyên làm thơ trào phúng đã cố tình đùa nghịch và "xuyên tạc", gắn cho cái nghĩa xương thịt, để rồi tự nguyện suy tôn Tú Xương (thịt) lên bậc tổ sư, còn mình là môn đệ. Và như thế là lịch sử văn học Việt Nam ở thế kỷ 20 bỗng nhiên có một "môn phái" gồm Tú Xương, rồi Tú Mỡ, Tú Sụn, Cử Nạc và thêm "chi phái": Tú Poanh, Đồ Phồn cũng là dòng tú, cử, đồ với nhau cả. Vinh dự thay cho vị tổ sư Tú Xương!

Bức tranh hiện thực trong thơ Tú Xương là một bức tranh xám xịt. Cảm hứng trong thơ Tú Xương hầu như không hướng nhiều về phía phản ánh những cái tốt lành. Thi sĩ Tú Xương biết buồn đau trước vận nước vận dân. Với giọng văn châm biếm sâu cay, thơ văn của ông đã đả kích thực dân phong kiến, quan lại, những người bán rẻ lương tâm chạy theo tiền bạc, những kẻ rởm đời lố lăng trong buổi giao thời.

Vịnh khoa thi Hương

Nhà nước ba năm mở một khoa,

Trường Nam thi lẫn với trường Hà.

Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,

Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.[4]

Lọng cắm rợp trời, quan Sứ đến,

Váy lê quét đất, mụ đầm ra.[5]

Nhân tài đất Bắc nào ai đó?

Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà!

Giễu người thi đỗ

Một đàn thằng hỏng đứng mà trông,

Nó đỗ khoa này có sướng không?[6]

Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt,

Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng![7]

Tính trào phúng được đẩy lên mức cao:

Ông cò

Hà Nam danh giá nhất ông cò,[8]

Trông thấy ai ai chẳng dám ho.

Hai mái trống toang đành chịu giột,[9]

Tám giờ chuông đánh phải nằm co.[10]

Người quên mất thẻ âu trời cãi,[11]

Chó chạy ra đường có chủ lo.[12]

Ngớ ngẩn đi xia may vớ được,[13]

Chuyến này ắt hẳn kiếm ăn to.

Đặc biệt bài thơ có một sức khái quát lớn đả kích Hoàng Cao Khải:

Phường nhơ[14]

Bấy lâu chơi với rặt phường nhơ,[15]

Quen mắt ưa nhìn chả biết dơ.

Nào sọt, nào quang, nào bộ gắp,[16]

Đứa bưng đứa hót đứa đang chờ.[17]

Mình hôi mũi ngạt không kỳ quản,

Áo ấm cơm no vẫn nhởn nhơ.

Ngán nỗi hàng phường khi cúng tế,

Vẽ ông ôm đít để lên thờ.[18]

Đề tài người vợ trong thơ của Tú Xương cũng rất được quan tâm và đón nhận. Cuộc đời ông chỉ sống được có 37 năm, nhưng học hành thi cử đến 8 lần mới đỗ Tú Tài, mọi việc ở nhà đều là một tay của bà Tú gánh vác. Chính vì vậy, Tú Xương rất trân trọng vợ mình, ông viết về vợ như một sự tri ân.

Thương vợ

Quanh năm buôn bán ở mom sông,

Nuôi đủ năm con với một chồng.

Lặn lội thân cò khi quãng vắng,

Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Một duyên hai nợ âu đành phận,

Năm nắng mười mưa dám quản công.

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,

Có chồng hờ hững cũng như không.

Sự trân trọng, tri ân ấy còn được ông nâng lên đến mức làm hẳn một bài "Văn tế sống vợ":

Văn tế sống vợ

Con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ

Tiếng có miếng không, gặp chăng hay chớ

Mặt nhẵn nhụi, chân tay trắng trẻo, ai dám chê rằng béo rằng lùn?

Người ung dung, tính hạnh khoan hoà, chỉ một nỗi hay gàn hay dở!

Đầu sông bãi bến, đua tài buôn chín bán mười

Trong họ ngoài làng, vụng lẽ chào dơi nói thợ

Gần xa nô nức, lắm gái nhiều trai

Sớm tối khuyên răn, kẻ thầy người tớ

Ông tu tác cửa cao nhà rộng, toan để cho dâu

Anh lăm le bia đá bảng vàng, cho vang mặt vợ


Thế mà:

Mình bỏ mình đi, mình không chịu ở

Chẳng nói chẳng rằng, không than không thở

Hay mình thấy tớ: nay Hàng Thao, mai phố Giấy mà bụng mình ghen?

Hay mình thấy tớ: sáng Tràng Lạc, tối Viễn Lai, mà lòng mình sợ?

Thôi thôi

Chết quách yên mồ

Sống càng nặng nợ

Chữ nhất phẩm ơn vua vinh tứ, ngày khác sẽ hay

Duyên trăm năm ông Nguyệt xe tơ, kiếp này đã lỡ

Mình đi tu cho thành tiên thành phật, để rong chơi Lãng Uyển, Bồng Hồ

Tớ nuôi con cho có rể có dâu, để trọn vẹn đạo chồng nghĩa vợ

Thơ Trần Tế Xương chữ nghĩa giản dị nhưng điêu luyện, thần tình, đôi khi tục nhưng không thô, phá cách nhưng đầy dụng ý, không chút non nớt tầm thường đúng như Xuân Diệu viết về ông:

Ông nghè ông thám vô mây khói

Đứng lại văn chương một tú tài